Chính khoảng thời gian sống giãn cách xã hội đã làm thay đổi rất nhiều về tư duy quản trị đất nước, về quy hoạch và quản lý đô thị, về cuộc sống, lối sống và cả văn hóa của mọi tầng lớp trong xã hội.
Thế giới hôm nay đã và đang phải đương đầu với đại dịch Covid-19, trong đó có Việt Nam. Lần đầu tiên người dân nước ta biết và hiểu thế nào là “giãn cách xã hội”, và chính khoảng thời gian sống giãn cách xã hội này đã làm thay đổi rất nhiều về tư duy quản trị đất nước, về quy hoạch và quản lý đô thị, về cuộc sống, lối sống và cả văn hóa của mọi tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là các đô thị lớn, nơi dễ bị tổn thương nhất bởi đại dịch.
Siêu đô thị và đô thị nén - trung tâm của các ổ dịch bệnh
Theo Jane Jacobs, người Mỹ gốc Canada, nhà hoạt động xã hội, nhà đô thị học, nhà tư tưởng của thế kỷ XX, tác giả cuốn sách nổi tiếng “Cái chết và cuộc sống của những thành phố lớn tại Mỹ” (Death and life of Great American Cities), thì đến năm 2030, 2/3 dân số thế giới sẽ cư trú ở đô thị, và thế giới khi đó sẽ có 41 siêu đô thị có dân số cư trú từ 10 triệu người trở lên. Sự xuất hiện càng nhiều những thành phố lớn tập trung đông dân cư, cũng có nghĩa mật độ tập trung những cư dân ưu tú có trình độ cao, kỹ năng cao - nguồn nhân lực cho sự phát triển sẽ nhiều hơn.
Thế nhưng, Jane Jacobs cũng chỉ rõ, siêu đô thị đâu phải là thiên đường, là ánh hào quang rực rỡ của văn minh đô thị, mà thực tế, nó đã và đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức như sự phân hóa giàu nghèo, sự mất dân chủ trong hưởng thụ tiện ích xã hội, sự đối phó thụ động khi xảy ra những biến cố lớn bởi biến đổi khí hậu và đại dịch.
Đúng như thế, nếu như năm 2003 dịch cúm SARS tàn phá Hongkong (Trung Quốc), trung tâm tài chính kinh tế hàng đầu châu Á, thì đại dịch Covid-19 hiện nay, đã làm tê liệt những siêu đô thị như New York, thành phố phồn vinh nhất nước Mỹ, Vũ Hán (Trung Quốc), Tokyo (Nhật Bản), Paris (Pháp), London (Anh), Milan (Italya)... và ngay cả Singapore, đất nước của nền kinh tế toàn cầu, của môi trường xanh, kiến trúc xanh cũng không tránh khỏi hệ lụy…
Hình ảnh những thành phố toàn cầu trên thế giới trong những ngày giãn cách xã hội được lan truyền trên mạng internet đã làm chúng ta ngạc nhiên. Thành phố không một bóng người. Không hoạt động cộng đồng. Thành phố như đã chết trong các phim giả tưởng của Hollywood. Và trong cơn khủng hoảng về xã hội và kinh tế do đại dịch Covid-19 gây ra, các nhà quy hoạch đô thị đã đau xót nhận ra rằng: Các trung tâm thương mại hào nhoáng, những khu chung cư cao vài chục tầng hiện đại… và hệ thống Metro, nơi lượng người tham gia giao thông công cộng đông nhất kia lại chính là những ổ dịch dễ lây lan và nguy hiểm nhất cho cộng đồng?!
Vậy khái niệm về thành phố mật độ cao hay đô thị nén với hệ thống giao thông công cộng hiện đại mà Hội nghị quốc tế đầu tiên về biến đổi khí hậu tại Geneva (Thụy Sĩ) năm 1979 do Liên Hợp Quốc tổ chức, đã khuyến khích và thúc đẩy phát triển, như lời giải cho bài toán phát triển đô thị bền vững của nhân loại trong thế kỷ XXI, có cần phải xem xét lại trong bối cảnh đại dịch virus Corona xảy ra trên phạm vi toàn cầu?!
Cần đổi mới quy hoạch đô thị ở Việt Nam
Phải xem xét một cách nghiêm túc và trách nhiệm về mô hình phát triển đô thị Việt Nam như thế nào để ít bị tổn thương nhất...
Khi đại dịch Covid-19 xảy ra, Hà Nội và TP.HCM, hai siêu đô thị có dân số 8 - 12 triệu người cũng trải qua những ngày vất vả, căng thẳng phòng chống dịch như các quốc gia trên thế giới nhưng với mức độ khác nhau. Những ngày đó, đường phố vắng lặng. Khu phố cổ Hà Nội và khu vực chung quanh Hồ Gươm bình thường vốn nhộn nhịp và đông đúc là thế, giờ cũng im lìm không một bóng khách du lịch.
Trên các phương tiện truyền thông, thường xuyên đưa hình ảnh sinh hoạt tại nhà của người dân và cả người nổi tiếng của giới showbiz để chứng minh rằng, dù có đại dịch, dù có phải sống giãn cách xã hội, cách ly cộng đồng thì con người vẫn sống vui vẻ, yêu đời với những tiện ích mà thời công nghệ số đem lại.
Nhưng thực tế, đó chỉ là sự thích ứng bất đắc dĩ. Thật dễ hiểu khi bà con phố Trúc Bạch đã hân hoan nhảy múa, hát hò, vẫy cờ tổ quốc sau hai tuần bị cách ly xã hội. Thật dễ hiểu khi các cháu học sinh vô cùng hào hứng, hớn hở, rạng rỡ nụ cười trẻ thơ khi được trở lại trường học sau những ngày dài xa bạn bè, thày cô. Thật dễ hiểu khi hoạt động đường phố rất nhanh trở lại nhộn nhịp với các cửa hàng, cửa hiệu, quán ăn, quán cafe cho dù phải thực hiện nghiêm quy định về khoảng cách. Các công viên, phố đi bộ quanh Hồ Gươm lại đông vui với mọi hoạt động cộng đồng. Thật dễ hiểu, giao thông trong thành phố dẫu lại tắc nghẽn, bụi mịn trong không khí lại quá mức cho phép vài lần nhưng người ta vẫn vui vẻ chấp nhận… Bởi, không gì đáng sợ hơn là sự cô độc, không giao tiếp, không gặp gỡ giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên.
Và khi trở lại trạng thái bình thường mới, người ta mới thấy hết ý nghĩa của những ngày thường bình dị trước khi đại dịch xảy ra.
Dịch Covid-19 chưa kết thúc và cũng chưa biết đến khi nào có thể kiểm soát được. Nhưng trước những bất cập đã bộc lộ kể trên, lúc này, các nhà quy hoạch và quản lý đô thị nước ta có rất nhiều vấn đề phải giải quyết. Trước hết, phải xem xét một cách nghiêm túc và trách nhiệm về mô hình phát triển đô thị Việt Nam như thế nào để ít bị tổn thương nhất, ảnh hưởng thấp nhất đến sự phát triển kinh tế khi phải đối phó các loại dịch bệnh tương tự.
Đô thị lớn tập trung với mật độ cao như Hà Nội và TP.HCM, chạy đua xây dựng nhà cao tầng với khối tích lớn dày đặc trong vùng lõi đô thị đang chật cứng người liệu có đúng không? Các đô thị vệ tinh trong quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn 2050 được Thủ tướng phê duyệt từ năm 2011 lẽ ra phải là nơi phát triển, thu hút dân cư thì đã gần 10 năm nay bị lãng quên, hay ít được quan tâm (trừ đô thị Hòa Lạc - Xuân Mai)? Các khu đô thị mới xuất hiện ngày càng nhiều với san sát chung cư cao tầng - nơi trú ngụ của hàng chục vạn người, liệu có phải là mô hình đáng sống? Các không gian công cộng, không gian xanh, mặt nước ngày càng bị thu hẹp và xuống cấp sẽ phát huy tác dụng thế nào khi đại dịch?
Các đô thị vệ tinh trong quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn 2050 lẽ ra phải là nơi phát triển, thu hút dân cư thì đã gần 10 năm nay bị lãng quên
Hiện nay, ngoài vài thành phố lớn và siêu lớn như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ thì hệ thống đô thị Việt Nam còn hơn 800 đô thị vừa và nhỏ có dân số từ vài chục nghìn đến vài trăm nghìn người. Đó là vốn quý, là tiềm năng cho phát triển bền vững nếu được quan tâm đầu tư, chăm sóc.
Cuối năm 2019, Bộ Xây dựng đã thông qua Khung thực hiện chương trình phát triển đô thị nhằm tạo hỗ trợ pháp lý để tăng tốc phát triển. Song chưa có một chính sách nào đề cập tới sức chống chịu và khả năng đối phó thảm họa của đô thị. Quy hoạch chiến lược đô thị của ta còn chung chung, nên các đô thị đang trong tình trạng không rõ quy mô. Đô thị còn bị các dự án đầu tư dẫn dắt phát triển, chứ không phát triển theo quy hoạch.
Thay lời kết
Chúng ta đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, thời kỳ của công nghệ số, của trí tuệ nhân tạo, của đô thị thông minh, nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với những diễn biến bất thường của biến đổi khí hậu và các đại dịch đã và sẽ xảy ra trên phạm vi toàn cầu.
Để có thể tăng sức đề kháng cho hệ thống đô thị, đã đến lúc phải chú trọng nâng cao chất lượng đô thị, thay vì bằng mọi cách (kể cả vay mượn các chỉ tiêu) để nâng cấp, mở rộng diện tích và quy mô đô thị. Các đô thị nhỏ, phi tập trung, mật độ dân cư thấp cần xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo hướng văn minh, hiện đại và có bản sắc, được kết nối với nhau bởi hệ thống giao thông từ Bắc đến Nam, sẽ là động lực phát triển kinh tế bền vững của địa phương, của vùng, của cả nước. Và đó cũng sẽ là nơi đáng sống, là nơi cư trú an toàn cho cư dân và cộng đồng khi xảy ra các đại dịch. /.